Trong chương trước của Thần học về Thân xác, Gioan Phaolô đã khảo sát yếu tố thần linh của bí tích Hôn phối (giao ước và ân sủng của Thiên Chúa). Lúc này, ngài hướng sự chú ý đến chiều kích nhân loại, qua đó Thiên Chúa hành động (dấu chỉ).
Nếu tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội Thánh là mẫu gương cho tình yêu giữa vợ chồng, thì những biểu hiện tình yêu của họ tốt đẹp trong mức độ chúng phản chiếu tình yêu ấy, trở thành một dấu chỉ rõ ràng về nó. Vì thế, khi phán đoán luân lý của bất kỳ hành vi tính dục nào, đây chính là câu hỏi cần phải được đặt ra: Tôi có đang diễn tả tình yêu của Thiên Chúa bằng chính thân xác mình không?296
Tình yêu của Thiên Chúa thì tự do, trọn vẹn, trung tín và sinh hoa kết quả. Tuy nhiên, tính dục hiện đại thường đảo ngược tất cả điều này: thay vì tự do, nó thường bị mua bán trong mại dâm, bị đòi hỏi trong lạm dụng tình dục, và bị thúc đẩy bởi nghiện ngập. Thay vì trọn vẹn, nó thường bị giảm xuống thành những cuộc “tình một đêm,” thủ dâm, và những tương tác rỗng tuếch trên mạng. Thay vì trung tín, nó thường bị hạ thấp bởi những cuộc ngoại tình cả trong hành vi lẫn trong tưởng tượng. Thay vì phát sinh sự sống, nó thường bị ngăn chặn bằng tránh thai, triệt sản, và phá thai.
Dấu chỉ vĩ đại mà Thiên Chúa đã tạo dựng để phản ánh tình yêu của Ngài dành cho nhân loại đã bị phá vỡ một cách có hệ thống. Nhiệm vụ của Kitô hữu là tái kiến thiết nó để thân xác con người có thể một lần nữa trở thành dấu chỉ hữu hình của tình yêu vô hình của Thiên Chúa. Làm sao điều này có thể?
Bằng cách nói sự thật nơi thân xác chúng ta.
Vì mang ý nghĩa hôn nhân, thân xác có khả năng diễn tả tình yêu. Nhưng nó cũng có thể diễn tả điều ngược lại. Chính vì thế, Gioan Phaolô đã nói đến “ngôn ngữ của thân xác.” Điều này không nên bị nhầm lẫn với “ngôn ngữ cơ thể,” vốn ngay cả loài vật cũng có thể diễn tả qua sợ hãi, hung hăng hay phấn khích. Thân xác con người nói ngôn ngữ của nhân vị; nó nói sự thật về ơn gọi của chúng ta là yêu thương như Thiên Chúa yêu. Đây là Tin Mừng, chứ không phải là một danh sách khô khan những luật lệ luân lý! Thật vậy, Michael Waldstein nhận xét rằng Thần học của Thân xác “không chủ yếu là một lời khuyên nhủ phải tuân theo luật của thân xác, mà là một lời công bố đầy sức thuyết phục về Tin Mừng của thân xác.”297
Theo lời Gioan Phaolô, chúng ta có thể đánh giá luân lý của một hành vi tình dục dựa trên việc hành vi đó có mang “tính cách của một dấu chỉ chân thật” hay không.298 Chẳng hạn, trong hành vi vợ chồng trong hôn nhân, thân xác của đôi bạn nói lên sự thật. Thân xác đang nói: “Anh hoàn toàn thuộc về em. Anh hiến dâng chính mình cho em.” Sự hiến tặng trọn vẹn của thân xác tương ứng với sự hiến tặng trọn vẹn của nhân vị. Tuy nhiên, cũng như thân xác có khả năng nói sự thật, nó cũng có thể nói dối. Sự thân mật tình dục ngoài hôn nhân là một ví dụ. Thân xác dường như nói: “Anh hoàn toàn thuộc về em. Anh hiến dâng chính mình cho em.” Trong thực tế, không có sự hiến dâng trọn vẹn nào đang diễn ra.
Ngay cả khi một đôi bạn trẻ không có ý định gian dối trong mối quan hệ, sự thân mật tình dục ngoài hôn nhân vẫn là một lời dối trá trong ngôn ngữ của thân xác. Không chỉ vì tình dục “phải ở trong hôn nhân,” mà vì giao hợp chính là hành vi hôn phối. Những lời thề hôn nhân “Anh nhận em làm vợ/Em nhận anh làm chồng” chỉ được nên trọn qua hành vi giao hợp.299 Lời thề hôn nhân trở thành xác thể khi những lời ấy được hiện thực hoá nơi hành động.
Mặc dù chúng ta là tác giả của ngôn ngữ của thân xác, nhưng điều này không có nghĩa là ta có thể làm cho ý nghĩa của nó trở nên tương đối, tự mình định đoạt điều gì là thiện và ác. Biểu hiện chủ quan phải tương ứng với thực tại khách quan.300 Điều này có thể khó khăn, bởi vì Gioan Phaolô lưu ý rằng tính dục tội lỗi đưa đến nhiều sai lạc trong việc nhận ra ngôn ngữ của thân xác.301 Chúng ta bị cám dỗ để uốn cong sự thật, và khuynh hướng này không biến mất khi bước vào hôn nhân.
Vợ chồng phải chuyên tâm diễn tả sự thật nơi và qua thân xác họ. Thực vậy, họ có một bổn phận đặc biệt để làm điều này. Bởi vì thân xác có khả năng diễn tả một thứ ngôn ngữ, Gioan Phaolô nhận xét rằng vợ chồng có thể làm chứng như những ngôn sứ đích thực.302 Ngôn sứ là “người diễn tả bằng ngôn từ loài người chân lý đến từ Thiên Chúa.”303 Công việc của họ, với tư cách là một đôi vợ chồng, là “công bố chính xác ‘ngôn ngữ của thân xác,’ được đọc lại trong sự thật.”304
296 Cf. Man and Woman He Created Them, 122.
297 Ibid., 127.
298 TOB 37:6.
299 Cf. TOB 104:7; 105:2:6; 107:5: f.
300 TOB 103:2.
301 Cf. TOB 107:3.
302 Cf. TOB 104:1; 105:2; 106:4.
303 TOB 105:2.
304 105:2; cf. 104:8.

Leave a Reply