Tuy nhiên, tác động pháp lý của hôn nhân đồng giới còn đi xa hơn nữa – theo những cách sẽ ảnh hưởng đến tất cả các bậc cha mẹ. Ở hầu hết các tiểu bang, “giả định về cha mẹ” có nghĩa là luật định nghĩa quyền làm cha mẹ là người phụ nữ sinh con, người chồng của cô ấy được xem là cha ruột và cha hợp pháp của đứa trẻ. Tên của họ được ghi vào giấy khai sinh, và điều này trở thành cơ sở pháp lý cho quyền và trách nhiệm làm cha mẹ suốt đời. Nhưng khi một cặp đôi đồng giới có con, thì ít nhất một trong số họ không phải là cha mẹ ruột. Tên của ai được ghi vào giấy khai sinh? Ai có quyền làm cha mẹ?
Trước đây, nếu cha mẹ ruột có bạn đời đồng giới, thì bạn đời đó không được liệt kê trên giấy khai sinh của đứa trẻ. Tuy nhiên, hàm ý của phán quyết Obergefell là một cặp đôi đồng giới có cùng giả định về quyền làm cha mẹ như một cặp đôi khác giới. Như giáo sư luật Douglas NeJaime giải thích, những người ủng hộ người đồng tính từ lâu đã tìm cách xây dựng một mô hình làm cha mẹ mới không dựa trên sinh học hoặc giới tính. Và đó chính xác là những gì phán quyết Obergefell đã cung cấp cho họ: Tòa án “khẳng định một mô hình làm cha mẹ dựa trên các mối quan hệ chức năng được lựa chọn thay vì chỉ dựa trên sinh học… Sinh học và giới tính đứng sau sự hình thành gia đình thực sự” dựa trên sự lựa chọn.63
Nói cách khác, bằng cách chấp nhận quan điểm rằng hôn nhân là một hình thức hợp đồng giữa hai người bất kể giới tính, nhà nước hiện cũng sẽ phải chấp nhận một quan điểm tương tự về việc hình thành gia đình và quyền làm cha mẹ.
Lý do cơ bản rất rõ ràng: Khi các cặp đôi đồng giới có con—cho dù là thông qua ly hôn, nhận con nuôi hay sinh sản của bên thứ ba—những đứa trẻ đó không có quan hệ huyết thống với một hoặc cả hai cha mẹ. Do đó, nếu cha mẹ đồng giới có cùng địa vị pháp lý như cha mẹ dị tính, về mặt logic, nhà nước phải bỏ đi nguyên tắc truyền thống cho rằng quyền làm cha mẹ phát sinh từ mối liên hệ sinh học tự nhiên.
Nói cách khác, định nghĩa về quyền làm cha mẹ đang bị “tách rời” khỏi nguồn gốc tự nhiên của nó.
Cho đến nay, tiểu bang chỉ được yêu cầu định nghĩa quyền làm cha mẹ trong các trường hợp tranh chấp quyền nuôi con khi một người lớn không phải là cha mẹ ruột muốn có quyền làm cha mẹ, chẳng hạn như cha dượng, ông bà hoặc bạn tình đồng giới. Sau đó, tiểu bang đặt ra các câu hỏi như: Đứa trẻ có gọi người này là “mẹ” không? Họ đã dành bao nhiêu thời gian bên nhau? v.v. Tòa án phải quyết định ai được coi là cha mẹ trên cơ sở tương đối chủ quan.
Tuy nhiên, một khi vai trò làm cha mẹ không còn gắn liền với sinh học, thì nhà nước sẽ phải đưa ra định nghĩa chung cho tất cả mọi người về ai được xem là cha mẹ. Nhà nước sẽ quyết định ai có quyền làm cha mẹ. Chức năng làm cha mẹ, thay vì được công nhận như một thực tại tự nhiên có trước nhà nước và cần được nhà nước tôn trọng, thì nay bị xem như một điều do nhà nước tạo ra và ban hành.
Và nếu quyền làm cha mẹ được nhà nước tạo ra, thì nhà nước có quyền định nghĩa và kiểm soát nó. Sẽ dễ dàng hơn nhiều cho các cơ quan nhà nước can thiệp vào gia đình, đưa ra quyết định về cách nuôi dạy và giáo dục trẻ em, hoặc thậm chí có thể tước quyền nuôi con nếu nhà nước cho rằng cha mẹ không phù hợp với quan điểm chính thức. Jennifer Roback Morse dự đoán rằng “các mối quan hệ sinh học tự nhiên sẽ bị các mối quan hệ do chính phủ tạo ra và xây dựng trên cơ sở xã hội lấn át một cách có hệ thống và thường xuyên”.64
Do đó, một định nghĩa phi tự nhiên về hôn nhân chắc chắn sẽ dẫn đến một định nghĩa phi tự nhiên về quyền làm cha mẹ. Morabito giải thích rằng “Hôn nhân dân sự cung cấp toàn bộ cơ sở để cho rằng cha mẹ ruột có quyền và trách nhiệm nuôi dạy con cái của chính họ”. “Nếu chúng ta xóa bỏ hôn nhân dân sự, thì những quyền này sẽ không còn là không còn là mặc nhiên, mà trở thành những đặc quyền được nhà nước phân phối theo ý muốn”.65
Theo cách này, thật nghịch lý, mô hình gia đình dựa trên sự lựa chọn cuối cùng lại trao nhiều quyền kiểm soát hơn cho nhà nước.
Ở Canada, hiện nay, việc các cơ quan nhà nước (như trường công) tranh luận về hôn nhân nam/nữ hoặc quyền nuôi con bị coi là “phân biệt đối xử”. Ở tỉnh Alberta, chính phủ đã ban hành hướng dẫn chỉ thị cho giáo viên và quản lý trường học không được sử dụng các thuật ngữ “mẹ” và “cha” khi nói chuyện với học sinh. Thay vào đó, họ chỉ được sử dụng các thuật ngữ không phân biệt giới tính như “cha mẹ/người giám hộ” hoặc “đối tác” hoặc “người chăm sóc”.66
Những người lập kế hoạch tập trung từ nhà nước luôn muốn đưa gia đình vào sự kiểm soát chặt chẽ hơn của chính phủ để dễ dàng truyền bá hệ tư tưởng chính trị của họ vào tâm trí trẻ em và tạo ra những công dân dễ bảo. Không phải ngẫu nhiên mà khi quyền lực của chính phủ trở nên quá mức, chúng ta gọi đó là “chủ nghĩa gia trưởng”, hoặc chúng ta nói về nhà nước “bảo mẫu”. “Chủ nghĩa gia trưởng là điều bạn có được trong một xã hội không có cha. Bảo mẫu là thứ bạn có trong một xã hội không có mẹ”, nhà thần học Brian Mattson viết. Đó là một manh mối cho một “nguyên tắc quan trọng: rằng các gia đình hạt nhân là một trong những phương tiện chính để hạn chế nhà nước. Họ là nền tảng của xã hội dân sự, một vùng đệm giữa cá nhân và quyền lực thô sơ của nhà nước”.67
63. Douglas NeJaime, “With Ruling on Marriage Equality, Fight for Gay Families Is Next,” Los Angeles Times, June 26, 2015.
64. Jennifer Roback Morse, “4 Questions about Surrogacy for Conservatives Who Support Gay Marriage,” The Daily Caller, June 2, 2015; see also Jennifer Roback Morse, “Privatizing Marriage Will Expand the Role of the State,” Public Discourse, April 3, 2012.
65. Stella Morabito, “Bait and Switch: How Same Sex Marriage Ends Family Autonomy,” The Federalist, April 9, 2014.
66. Alberta Government, “Guidelines for Best Practices,” 2016, https://education.alberta.ca/media/1626737/91383-attachment-1-guidelines-final.pdf. For example, “School forms, websites, letters, and other communications use non-gendered and inclusive language (e.g., parents/guardians, caregivers, families, partners, “student” or “their” instead of Mr., Ms., Mrs., mother, father, him, her, etc.).”
67. Brian Mattson, “The Family’s Fair-Weather Friends, Part 2,” Dr. Brian Mattson, June 30, 2015, http://drbrianmattson.com/journal/2015/6/30/the-familys-fair-weather-friends-part-two.

Leave a Reply