Tình yêu có nhiều biểu hiện. Biểu hiện đầu tiên của tình yêu có lẽ là một sự thiên vị, ưu ái hoặc ưa thích không vụ lợi: amor complacentiae. Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, trao ban cho con người hình thức tình yêu này hơn mọi hình thức khác — một sự ưu ái yêu thương.
Ánh mắt của Đấng Tạo Hóa, dù ôm ấp toàn thể vũ trụ Ngài đã dựng, lại dừng lại cách đặc biệt trên con người, là đối tượng của sự ưu ái đặc biệt của Ngài..
Ánh mắt ấy dừng lại trên cả người nam lẫn người nữ, khi Ngài đã tạo dựng họ. Có lẽ vì thế mà sách Sáng Thế nhấn mạnh rằng họ đều trần truồng mà không thấy xấu hổ (St 2,25).7
Ở một chỗ khác, tác giả thư gửi tín hữu Híp-ri viết:
“Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Hr. 4,13). Thiên Chúa ưu ái đón nhận người nam và người nữ trong toàn bộ sự thật về nhân tính của họ.
Ngài đặt ân sủng sáng tạo và tình phụ tử của mình—sự ưu ái đặc biệt—trong sự thật này.
Ngài ghi khắc vào tâm hồn họ sự yêu mến vô vị lợi, trao cho họ khả năng để yêu nhau, cảm mến nhau. Trong ánh mắt của người nam, người nữ là một tổng hợp đặc biệt của vẻ đẹp toàn thể tạo thành, và tương tự như vậy, người nam cũng là như thế trong ánh mắt của người nữ. Sự trần trụi của họ hoàn toàn không phải là nguyên cớ của sự xấu hổ. Tình yêu của Đấng Tạo Hóa dành cho họ biến đổi thân thể họ cách sâu xa. Ta có thể nói đến một hình thức đặc biệt nào đó của việc tình yêu đón nhận và chuyển hóa sự xấu hổ,8 lần này, chính là tình yêu của Thiên Chúa làm điều đó. Tình yêu ấy cho phép họ giao tiếp với nhau và hân hoan trong việc đón nhận nhau như món quà, trong sự đơn sơ và vô tội. Tình yêu ấy cũng giúp họ cảm nghiệm được sự được ban tặng nơi nhân tính của mình—một nhân tính luôn mang hai chiều kích nam và nữ.
Điều đáng lưu ý là những lời thiết lập hôn nhân không phải là những lời đầu tiên mà Đấng Tạo Hóa phán với người nam và người nữ. Những lời đầu tiên ấy nói về sự kết hợp thể xác giữa hai người trong hôn nhân, như thể được nhìn từ viễn cảnh chọn lựa trong tương lai: người nam sẽ lìa cha mẹ mình và gắn bó với vợ mình, trở nên một xương một thịt với nàng, và khởi đầu9 cho một sự sống mới (St 2:24). Ngay từ khởi đầu, việc duy trì nhân loại đã được liên kết với trật tự nảy trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chính việc duy trì ấy đã hàm chứa một sự ưu ái yêu thương rồi. Trong lòng mình, người nam và người nữ trước hết phải khám phá ra sự yêu thích họ dành cho nhau, và nhận ra vẻ đẹp của nhân tính, rồi từ đó, trái tim họ mới sinh ra khát khao trao ban sự sống mới—trao truyền món quà nhân tính cho những hữu thể mới mà Thiên Chúa, vào thời điểm của Ngài, có thể ban cho họ.
Bất cứ ai cho rằng trình thuật Kinh Thánh về việc Thiên Chúa tạo dựng con người áp đặt bởi cái nhìn sinh học thì đã sai lầm nghiêm trọng. Đấng Tạo Hóa phán: “Hãy sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất và thống trị nó” (St 1:28), chỉ sau khi đã gieo vào lòng họ một khoảng không gian nội tâm — nơi chan chứa sự yêu thương ưu ái, được vẻ đẹp làm chủ cách sâu xa. Người ta có thể nói rằng, bằng cách tạo dựng người nữ, Thiên Chúa đã khơi dậy nơi con người một khát vọng mãnh liệt hướng về vẻ đẹp—một khát vọng sẽ trở thành chất liệu cho óc sáng tạo, nghệ thuật và biết bao thực tại khác của con người… Trong mọi sự sáng tạo mang tính thiêng liêng đều có một cuộc tìm kiếm vẻ đẹp, một khát vọng được hiện thân trong những hình thức mới, những nguồn mạch ngỡ ngàng mới—điều vốn thiết yếu đối với con người như cơm ăn nước uống. Norwid từng viết: “Vẻ đẹp tồn tại để khiến chúng ta kinh ngạc mà bắt tay vào công việc, và công việc tồn tại để vực ta từ cõi chết.” Nếu con người thực sự được phục sinh qua công việc—qua những hình thức lao động khác nhau mà họ thực hiện—thì điều đó là nhờ cảm hứng họ rút ra từ vẻ đẹp: từ vẻ đẹp của thế giới hữu hình, và cách riêng, từ vẻ đẹp của nữ tính.
Chủ đề này xuyên suốt lịch sử nhân loại, và đặc biệt là lịch sử cứu độ. Đỉnh cao của lịch sử ấy là sự Phục Sinh của Đức Kitô – và sự Phục Sinh ấy là mạc khải về vẻ đẹp cao cả nhất, một mạc khải đã được báo trước nơi sự kiện Chúa Biến Hình. Mắt các Tông đồ sững sờ trước vẻ đẹp ấy, và họ đã muốn ở lại trong quầng sáng của vẻ đẹp đó.
Vẻ đẹp của sự Biến Hình đã ban cho các Tông đồ sức mạnh, để họ có thể chịu đựng được Cuộc Thương Khó nhục nhã của Đức Kitô đã biến hình. Vì vẻ đẹp là nguồn sức mạnh cho con người. Nó là cảm hứng cho lao động, là ánh sáng dẫn ta vượt qua bóng tối của kiếp người, cho phép ta chiến thắng mọi đau khổ và sự dữ bằng điều thiện, vì niềm hy vọng nơi sự Phục Sinh không bao giờ bị đặt sai chỗ. Tất cả mọi người đều biết điều này – mỗi người nam và mỗi người nữ – vì Đức Kitô đã sống lại! Sự Phục Sinh của Đức Kitô khai mở sự tái sinh và phục hồi vẻ đẹp mà con người đã đánh mất vì tội lỗi.
Thánh Phaolô nói về Ađam mới trong thư gửi Rôma 5,12–21. Ở nơi khác, ngài nói đến nỗi khát khao mãnh liệt của toàn thể tạo thành đang chờ đợi con cái Thiên Chúa được tỏ hiện (Rm 8,19). Thật vậy, nơi con người có một khát vọng sâu xa và nỗi khát khao đối với vẻ đẹp mà Thiên Chúa đã ban cho con người khi tạo dựng họ thành nam và nữ. Đồng thời, có một cuộc tìm kiếm hình thức biểu hiện của vẻ đẹp ấy trong mọi sáng tạo của con người.
Nếu sáng tạo là cách đặc biệt để con người biểu hiện chính mình, thì nó cũng là biểu hiện của niềm khát khao mà Thánh Phaolô đã nói đến. Nỗi khát khao này đi kèm với đau khổ, vì “toàn thể thọ tạo cùng rên siết, quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22).
Khát khao của trái tim con người đối với vẻ đẹp nguyên thủy mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho nhân loại cũng chính là ước muốn được hiệp thông, nơi đó việc chân thành trao ban bản thân được thể hiện. Vẻ đẹp ấy và sự hiệp thông ấy không phải là những điều đã mất mãi mãi — chúng là những hồng ân cần được cứu chuộc và phục hồi. Và theo nghĩa này, mọi con người được ban cho người khác —người nữ được ban cho mọi người nam, và người nam được trao ban cho người nữ.
7. Xem phần trình bày chi tiết về hiện tượng xấu hổ trong các bài giáo lý ngày thứ Tư của Thánh Gioan Phaolô II: ngày 12/12/1979, 2/1/1980, 14/5/1980 và 30/7/1980; cũng như trong tác phẩm Tình yêu và Trách nhiệm/ Love and Responsibility (Karol Wojtyła).
8. Đây là một tiêu đề chương trong tác phẩm Love & Responsibility.
9. Từ tiếng Ba Lan Dać początek có thể được dịch là “sinh ra”, “khởi đầu”, hoặc “trao truyền”, nhưng cụm từ ít phổ biến hơn là “trao ban sự khởi đầu” được chọn để nắm bắt đúng hơn ý nghĩa vừa là ban tặng, vừa là khởi sinh trong thời gian như ngữ nghĩa gốc tiếng Ba Lan.
Leave a Reply