Những khao khát của linh hồn liên quan đến việc tìm kiếm vẻ đẹp của nhân vị và vẻ đẹp của sự hiệp thông thường gặp phải một ngưỡng cửa cụ thể. Con người có thể vấp ngã tại ngưỡng cửa này. Thay vì tìm thấy vẻ đẹp, họ đánh mất nó và bắt đầu tạo ra những sự thay thế giả tạo. Con người có thể làm cho nền văn minh của mình trở nên lộn xộn với những sự thay thế. Nền văn minh đó không còn là nền văn minh của vẻ đẹp nữa vì nó không được phát sinh từ tình yêu vĩnh cửu, tình yêu mà từ đó Thiên Chúa đã tạo dựng con người và làm cho con người trở nên xinh đẹp, cũng như sự hiệp thông giữa các nhân vị—giữa người nam và người nữ—đã được tạo dựng nên thật đẹp đẽ. Norwid, người có trực giác sâu sắc về chân lý này, đã viết rằng vẻ đẹp là hình thức của tình yêu. Vẻ đẹp không thể được tạo ra nếu người ta không tham gia vào tình yêu đó. Người ta không thể tạo ra vẻ đẹp nếu không nhìn bằng đôi mắt mà qua đó Thiên Chúa ôm lấy thế giới Ngài đã tạo dựng từ ban đầu và nhìn ngắm con người mà Ngài đã tạo dựng trong thế giới đó.
Tất cả những điều này không có nghĩa là thời đại của chúng ta thiếu những người nỗ lực hết mình cho điều này.10 Chúng ta chưa bao giờ thiếu những người như vậy. Đó là lý do tại sao tổng kết chung của nền văn minh nhân loại, có thể nói, vẫn là tích cực. Bảng cân đối này được tạo ra bởi số ít những thiên tài và thánh nhân vĩ đại. Họ đều là những nhân chứng cho việc làm thế nào để vượt qua sự tầm thường, và đặc biệt là làm thế nào để chiến thắng cái ác bằng điều thiện, làm thế nào để điều thiện và vẻ đẹp vẫn có thể được khám phá bất chấp tất cả những thiếu thốn và suy đồi mà nền văn minh nhân loại phải chịu đựng. Như chúng ta thấy, ngưỡng cửa mà con người vấp ngã không phải là không thể vượt qua. Chúng ta cần nhận thức rằng nó tồn tại, và chúng ta cần có can đảm để vượt qua nó một lần nữa.
Làm thế nào để chúng ta vượt qua ngưỡng cửa này? Tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua nó bằng cách theo đuổi niềm tin rằng Thiên Chúa ban con người cho con người, và khi ban con người, Ngài ban cho họ toàn bộ sự sáng tạo, toàn bộ thế giới. Khi con người khám phá ra món quà vô vị lợi mà người khác dành cho mình, thì dường như người ấy khám phá ra toàn bộ thế giới nơi người kia. Điều quan trọng là nhận ra rằng có thể xảy ra trường hợp món quà này không còn vô vị lợi và chân thành trong cõi trái tim con người. Người này có thể trở thành đối tượng để người khác sử dụng. Đây là mối đe dọa lớn nhất đối với nền văn minh của chúng ta, đặc biệt là đối với nền văn minh của một thế giới giàu có về vật chất. Sự yêu thương vô vị lợi sau đó bị thay thế bởi sự thúc đẩy chiếm hữu và sử dụng người khác. Sự thúc đẩy như vậy là một mối đe dọa lớn không chỉ đối với người khác, mà đặc biệt là đối với người bị cuốn vào đó. Người như vậy tự hủy hoại khả năng trở thành một món quà, và do đó phá hủy khả năng sống theo nguyên tắc: “hãy trở nên người hơn”; thay vào đó, anh ta đầu hàng trước cám dỗ sống để: “sở hữu nhiều hơn nữa”—nhiều thú vui hơn, nhiều trải nghiệm hơn, nhiều cảm giác hơn, ít giá trị thực sự hơn, ít chịu đựng sáng tạo cho điều thiện hơn, ít sẵn sàng hy sinh bản thân cho điều thiện và vẻ đẹp của nhân loại hơn, ít tham gia vào Sự Cứu Chuộc hơn…
Chính nhờ ơn Cứu Chuộc mà người khác—người nữ đối với người nam hoặc người nam đối với người nữ—là một món quà lớn lao và vô giá như vậy. Sự Cứu Chuộc được hiểu đúng là sự giải quyết món nợ lớn mà nhân loại phải gánh chịu do tội lỗi. Tuy nhiên, nó cũng là, và có lẽ chủ yếu là, việc trao lại cho con người và toàn bộ sự sáng tạo sự tốt lành và vẻ đẹp đã được ban thuở ban đầu trong mầu nhiệm Sáng Thế. Trong Sự Cứu Chuộc, tất cả trở nên mới (Kh 21:5). on người, có thể nói, được ban tặng lại nhân tính của mình trong Mầu nhiệm Vượt Qua, nhờ Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại.
Con người nhận lại một cách mới mẻ căn tính nam, tính nữ của mình, khả năng sống vì người khác, khả năng sống trong sự hiệp thông lẫn nhau. Điều này soi sáng một cách mới mẻ ý nghĩa của lời nói: “Thiên Chúa đã ban em cho anh.” Thiên Chúa ban con người cho con người theo một cách thức mới qua Đức Kitô, nơi Người giá trị trọn vẹn của con người — giá trị mà con người đã có từ thuở ban đầu, mà con người đã lãnh nhận trong mầu nhiệm Sáng Tạo — được tỏ lộ và hiện diện một lần nữa.
Mỗi người mang trong mình một giá trị không thể đo lường được. Con người lãnh nhận phẩm giá này từ Thiên Chúa, Đấng đã tự trở nên người phàm và mạc khải sự sống thần linh mà, có thể nói, Người đã phó thác cho con người. Như thế, Người đã thiết lập một trật tự mới trong các mối tương quan giữa người với người. Trong trật tự mới này, con người lại càng hơn nữa là “thụ tạo duy nhất trên mặt đất mà Thiên Chúa đã muốn cho chính họ” (Gaudium et spes, 24) và là một hữu thể có nhân vị, phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa – một hữu thể chỉ có thể tìm thấy chính mình cách trọn vẹn nhờ “món quà chân thành là chính mình” (ibid.).
Vì vậy, ơn cứu chuộc chính là sự mở mắt con người trước toàn bộ trật tự của thế giới, một trật tự được xây dựng trên sự trao hiến chân thành và vô vị lợi. Đó là một trật tự mang chiều kích cá vị sâu xa, đồng thời cũng là một thực tại mang tính bí tích. Ơn cứu chuộc xác nhận tính thánh thiêng của toàn thể công trình tạo dựng. Ơn ấy cũng xác nhận tính thánh thiêng của con người – được dựng nên là nam và nữ. Nguồn mạch của sự thánh thiêng này chính là nơi sự thánh thiện của Thiên Chúa, Đấng đã trở nên người phàm. Là bí tích của Thiên Chúa hiện diện trong thế gian, Đức Kitô biến đổi thế giới này thành một bí tích chỉ đến Thiên Chúa.
Trong ánh sáng của Ơn Cứu Chuộc – được hoàn tất qua hy tế Mình và Máu Đức Kitô – sự thánh thiêng của thân xác con người trở nên rõ ràng hơn. Điều này vẫn đúng ngay cả khi thân xác ấy bị hao mòn và chà đạp, giống như thân xác của Đức Kitô đã bị kiệt sức và đánh đập trong cuộc Thương Khó của Người. Thân xác con người có phẩm giá riêng của nó, một phẩm giá tuôn trào từ sự thánh thiêng ấy. Điều này đúng cho cả thân xác người nam lẫn người nữ. Ơn cứu chuộc nơi thân xác mang lại, có thể nói, một chiều kích mới đặc biệt cho sự thánh thiêng của thân xác con người – một sự thánh thiêng không bao giờ được phép trở thành đối tượng để sử dụng. Mỗi người, đặc biệt là mỗi người nam, đều phải trở thành người gìn giữ và bảo vệ sự thánh thiêng và phẩm giá này.
“Con là người giữ em con hay sao?” – Ca-in đã hỏi (St 4,9), và như thế đã khởi đầu cho dòng chảy bi thảm của sự xem nhẹ cái chết trong lịch sử nhân loại. Đức Kitô đi vào chính giữa nền văn minh đó, vào giữa câu hỏi của Ca-in và trả lời: “Đúng vậy, con là người gìn giữ, con là người gìn giữ sự thánh thiện, là người gìn giữ phẩm giá con người nơi mỗi người nữ và mỗi người nam. Con là người canh giữ sự thánh thiêng nơi thân xác của chị con. Thân xác ấy phải luôn là đối tượng của lòng tôn trọng nơi con. Khi đó, con có thể vui mừng trước vẻ đẹp mà Thiên Chúa đã ban cho chị em từ thuở ban đầu, và chị em cũng sẽ vui mừng trong con. Chị em sẽ cảm thấy an toàn dưới ánh nhìn của người anh và sẽ vui mừng vì món quà mà nữ tính của chị em được tạo dựng để trở thành.”
Chính khi đó, “nữ tính muôn thuở” (das ewig Weibliche) mới có thể trở lại là một món quà bất khả xâm phạm dành cho nền văn minh nhân loại – là nguồn cảm hứng cho sáng tạo và là suối nguồn vẻ đẹp được ban để nâng con người từ cõi chết sống lại (Norwid).
Chẳng phải cũng chính vì thế mà biết bao cuộc “phục sinh nhân loại” đã tìm thấy nguồn gốc của mình nơi vẻ đẹp của người phụ nữ – vẻ đẹp của tình mẫu tử, của người chị, của người bạn đời – mà đỉnh cao độc nhất là nơi Mẹ Thiên Chúa đó sao?
10. Xem: Thánh GH Gioan Phaolô II, Buổi Tiếp Kiến nhân dịp kỷ niệm 180 năm ngày sinh của thi sĩ Cyprian Kamil Norwid (Ngày 1 tháng 7 năm 2001).
Leave a Reply