Thật bi thảm, việc định nghĩa lại hôn nhân dân sự để bao gồm cả các cặp đôi đồng giới đang phá hủy mọi thứ còn sót lại của một nền văn hóa đề cao hôn nhân. Trong phán quyết Obergefell của Tòa án Tối cao, luật sư bảo vệ luật hôn nhân của Michigan đã cố gắng giải thích rằng hôn nhân pháp lý không nhằm tôn vinh các mối quan hệ lãng mạn của mọi người, mà được thiết lập để phục vụ các mục đích phát sinh tự nhiên từ sinh học – cụ thể là bảo vệ những đứa trẻ được sinh ra từ mối quan hệ tình dục giữa nam và nữ. Nhưng Thẩm phán Kennedy đã bác bỏ sinh học một cách hời hợt và tuyên bố rằng mục đích của hôn nhân hợp pháp là bảo vệ “nhân cách” của các cặp đôi đồng giới. (“Việc từ chối quyền kết hôn của họ là làm giảm nhân cách của họ.”)
Do đó, Tòa án đã đưa chủ nghĩa nhị nguyên về thể xác/con người vào luật liên quan đến hôn nhân.
Một số người cho rằng Tòa án Tối cao chỉ mở rộng hôn nhân để cho phép nhiều người hơn được hưởng các lợi ích của nó. Nhưng trên thực tế, nó đã phi tự nhiên hóa hôn nhân. Cũng giống như giới tính (xem chương 6), hôn nhân giờ bị xem như hoàn toàn tách biệt khỏi sự bổ sung sinh học giữa hai giới và khỏi mối liên hệ sinh học giữa cha mẹ và con cái.
Việc Tòa xem nhẹ sinh học là một đặc điểm nổi bật trong lối tư duy pháp lý cấp tiến. Khi Thẩm phán Vaughn Walker lật ngược Dự luật 8 ủng hộ hôn nhân của California, ông đã định nghĩa hôn nhân là “sự công nhận và chấp thuận của nhà nước đối với sự lựa chọn của một cặp đôi để sống với nhau, để duy trì cam kết với nhau và để thành lập một hộ gia đình dựa trên cảm xúc của chính họ về nhau”.45 Không có gì trong định nghĩa này về tình dục. Không có gì về việc có con. Thẩm phán thậm chí còn không nói rằng tình dục và sinh sản là một trong những mục đích của hôn nhân. Chúng hoàn toàn không nằm trong danh sách của ông. Ông định nghĩa hôn nhân là một sự lựa chọn chỉ dựa trên cảm xúc.
Vấn đề là: nếu định nghĩa này đúng, thì nó có thể áp dụng cho bạn cùng phòng, cặp đôi đa thê, hoặc bất kỳ sự kết hợp nào khác. Nó không thừa nhận bất cứ điều gì đặc biệt về hôn nhân.
Tương tự như vậy, Evan Wolfson, giám đốc điều hành của nhóm bảo vệ quyền đồng tính Freedom to Marry, định nghĩa hôn nhân là “mối quan hệ yêu thương và tận tụy với người khác”.46 Nhà báo Andrew Sullivan, người tự nhận mình là người đồng tính, định nghĩa hôn nhân “chủ yếu là cách mà hai người trưởng thành khẳng định cam kết về mặt tình cảm với nhau”.47
Đây là một định nghĩa vô vị đến khó tin về hôn nhân. Nó không giải thích được điều gì khiến hôn nhân khác với những cam kết tình cảm khác. Nó cũng không thể giải thích tại sao hôn nhân lại đặt ra những yêu cầu đặc biệt đối với chúng ta, chẳng hạn như sự chung thủy, tính độc quyền và tính lâu dài. Các mối quan hệ khác không đặt ra những yêu cầu đó. Tại sao hôn nhân lại phải đặt ra?
Tuy nhiên, đây là định nghĩa về hôn nhân mà Tòa án Tối cao đã đưa vào luật của đất nước trong vụ Obergefell. Và trong quá trình này, nó đã làm suy yếu hôn nhân đối với mọi người. Bởi một hợp đồng dựa hoàn toàn trên cảm xúc thì vững chắc đến đâu, khi cảm xúc vốn thay đổi theo thời gian? Chúng ta đang đánh mất đạo đức công cộng vốn được xây dựng từ những cam kết cá nhân bền vững.
45. Judge Vaughn Walker, Perry v. Schwarzenegger, 591 F.3d 1126 (9th Cir. 2009), 67.
46. Cited in Blankenhorn, Future of Marriage, 122.
47. Andrew Sullivan, “Introduction,” Same-Sex Marriage: Pro and Con, ed. Andrew Sullivan (New York: Vintage Books, 1997, 2004), xxiii.
Leave a Reply