Sau khi giới thiệu khái niệm ngôn ngữ của thân xác, nhưng trước khi giải thích cách nam nữ có thể áp dụng những giáo huấn này vào đời sống hằng ngày, Gioan Phaolô đã chuẩn bị mười bài suy niệm khác để bàn về sách Diễm Ca, sách Tôbia và thư thánh Phaolô gửi Êphêsô. Tuy nhiên, một phần quan trọng trong những bài giáo lý này đã không được công bố khi đó, vì ngài cho rằng chúng quá tế nhị đối với các thính giả trẻ. Mãi đến nhiều năm sau, toàn bộ văn bản mới được công bố rộng rãi.
Gioan Phaolô bắt đầu với một suy tư về Diễm Ca, vốn là một khúc ca tôn vinh tình yêu say đắm. Thơ ca của tác giả kết hợp cái thiêng liêng với tính dục, khi lời của cô dâu và chú rể đan xen như một bản song ca.305 Qua đó, Gioan Phaolô dẫn người đọc qua một loạt bước để cho thấy sự trưởng thành của dấu chỉ bí tích. Người đọc hiện đại có thể thắc mắc tại sao văn chương nhục cảm lại nằm ở giữa Cựu Ước, nhưng người Do Thái lại coi trọng nó. Bậc hiền triết trứ danh thế kỷ thứ nhất, Rabbi Aqiba, đã tuyên bố: “Mọi thời đại đều không sánh bằng ngày mà Diễm Ca được ban cho Israel; bởi vì mọi sách đều là thánh, nhưng Diễm Ca là Cực Thánh.”306
Theo lời Gioan Phaolô, Diễm Ca giống như việc biến tiếng thở hổn hển đầu tiên đầy ngạc nhiên của Ađam khi nhìn thấy Evà thành cả một quyển văn thơ!307 Trong đó, đôi bạn bày tỏ sự ngưỡng mộ lẫn nhau trong nam tính và nữ tính của họ. Đặc biệt, chú rể bày tỏ sự say mê và ngạc nhiên trước thân xác cô dâu, vốn tỏ lộ cô như một nhân vị. Anh đứng trong kinh ngạc, không chỉ trước nàng, mà còn trước tình yêu họ chia sẻ. Đôi mắt và trái tim của chú rể bị chiếm lĩnh bởi mặc khải về nữ tính, và bởi món quà mà nàng là cho anh.308 Tuy nhiên, có một lời cảnh báo: người nam không thể coi nàng chỉ như một đối tượng của đam mê nhục cảm. Nàng là một nhân vị—một người chị—được tạo dựng cho chính bản thân mình.
Cũng như Đức Kitô mong muốn hiền thê của mình tinh tuyền và xinh đẹp, chú rể trong Diễm Ca cũng nói: “Bạn tình ơi, toàn thân nàng xinh đẹp, nơi nàng chẳng một chút vết nhơ.”309 Đây không phải là một khát vọng hời hợt về nhan sắc bên ngoài. Trái lại, vẻ đẹp của thân xác là một ẩn dụ về sự thánh thiện, tức sự vắng bóng của vết nhơ tội lỗi. Một dấu chỉ của tình yêu đích thực là mong ước và nỗ lực cho điều tốt đẹp của người mình yêu. Gioan Phaolô giải thích: “Điều tốt đẹp tạo ra bởi người đang yêu cho người mình yêu như là một bằng chứng kiểm nghiệm của tình yêu và mức độ sâu sắc của tình yêu người ấy. ”310 Nói cách khác, nếu một người nam nói rằng mình yêu một người nữ mà lại không gìn giữ vẻ đẹp tâm hồn của nàng, thì tình yêu ấy là giả dối.
Tuy nhiên, ước muốn về vẻ đẹp là một điều tốt. Gioan Phaolô nhận định: “được sinh ra từ tình yêu và dựa trên ‘ngôn ngữ của thân xác’, là một khát vọng hướng tới vẻ đẹp toàn vẹn — một sự tinh tuyền không vướng chút tì ố nào; đó là một sự tìm kiếm sự hoàn thiện, mà, có thể nói, bao hàm trong nó sự hòa quyện giữa vẻ đẹp của linh hồn và của thân xác con người.” 311 Thường thì do dục vọng, nam và nữ chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm vẻ đẹp bên ngoài nơi người khác (và nơi chính mình), mà ít hoặc không quan tâm đến vẻ đẹp thiêng liêng. Giải pháp không phải là khinh thường sự tốt lành của thân xác, mà là học hiểu ngôn ngữ mà nó đang công bố. Gioan Phaolô giải thích: “Cả nữ tính của cô dâu lẫn nam tính của chú rể đều nói mà không cần lời.”312 Ngôn ngữ của thân xác, được diễn tả qua khát vọng, dẫn đến sự kết hợp của đôi bạn, nơi họ thuộc trọn về nhau.313
Câu hỏi then chốt mà Đức Giáo Hoàng nêu ra là: Người nam sẽ là gì cho người nữ, và người nữ sẽ là gì cho người nam? 314 Trong sự ngưỡng mộ của chú rể dành cho cô dâu, anh thốt lên: “Này em gái của anh, người yêu anh sắp cưới, trái tim anh, em đã chiếm mất rồi!.”315 Gioan Phaolô nhận định rằng đây là một thử thách đối với động cơ của trái tim người nam.316 Anh đang tìm kiếm tình yêu hay dục vọng? Anh muốn hiến thân hay tìm khoái lạc cho riêng mình?
Câu trả lời được chính chú rể đưa ra, khi anh gọi nàng là “em gái.” Dù nghe có vẻ gượng gạo và không lãng mạn đối với độc giả hôm nay, nhưng nó ám chỉ rằng nàng là một người chị em với anh trong nhân loại, nhưng khác biệt bởi nữ tính của nàng. Sự khác biệt này, Gioan Phaolô dạy, “không chỉ liên quan đến giới tính, mà còn đến cách thế hiện hữu như một nhân vị.”317 Chẳng hạn, một trong những đặc điểm riêng biệt của nữ tính là sự cởi mở hướng đến tha nhân. Điều này đặt ra một câu hỏi cho người nam. Gioan Phaolô giải thích: “Người ‘em’ theo một nghĩa nào đó giúp người nam xác định và hình dung chính mình, nàng trở thành, có thể nói, một thách đố theo hướng này.”318
Chú rể trong Diễm Ca chấp nhận thách đố này, và tiếp tục gọi nàng là “em gái,” và nàng đáp lại: “Vì thế, trước mắt chàng, em là người tìm được bình an.”319 Gioan Phaolô ghi nhận rằng lý do cho sự bình an của nàng là vì chú rể đã đọc lại ngôn ngữ của thân xác trong sự thật và do đó khám phá ra tính bất khả xâm phạm của nàng như một nhân vị.320 Nghe có vẻ phức tạp, nhưng thực ra không phải vậy. Nàng trình bày chính mình trước đôi mắt của chàng như “chủ nhân của mầu nhiệm riêng của mình.”321 Bởi vì nàng là một nhân vị, không ai có thể hành động thay cho nàng. Nàng tự do hiến tặng chính mình, và sự tự do này cho thấy phẩm giá của nàng. Chàng không thể chọn thay cho nàng, cũng không thể áp đặt ý muốn của mình trên nàng.
Chú rể ý thức điều này, như được biểu lộ qua cách anh nói về nàng: “Em là khu vườn cấm, là dòng suối canh phòng nghiêm mật, là giếng nước niêm phong.”322 Nàng là một quà tặng cần được đón nhận, không phải là một đối tượng để chiếm đoạt. Bởi vì cô dâu là “chủ nhân của mầu nhiệm thẳm sâu của chính nữ tính của mình,” chỉ có nàng mới có thể mở ra mầu nhiệm ấy và hiến tặng chính mình.323 Về phía mình, chú rể được mời gọi phải có sự tinh tuyền, không chỉ trong hành động mà còn trong ý hướng, để tôn trọng tính bất khả xâm phạm của nàng.
Bởi vì ý thức rằng nàng là quà tặng, nàng tự do hiến thân và đáp lại: “Tôi thuộc trọn về người tôi yêu, người tôi yêu thuộc về tôi trọn vẹn.”324 Gioan Phaolô tiếp tục: “Cô dâu biết rằng ‘ước muốn của chàng’ là nàng. Nàng tiến đến với sự sẵn sàng hiến dâng chính mình. Tình yêu kết hợp họ vừa mang tính thiêng liêng vừa mang tính xác thịt.”325 Điều này chứng minh rằng người nam không thể yêu người nữ một cách đúng đắn như hiền thê nếu trước tiên không yêu nàng như một người em gái.
Sau khi nói về người nữ như một khu vườn đóng kín và một suối niêm phong, bài thơ tình tiến triển đến điều mà Gioan Phaolô coi là sự viên mãn và tột đỉnh của toàn bộ Diễm Ca.326 Cô dâu thốt lên: “Xin đặt em như chiếc ấn trên trái tim anh, như chiếc ấn trên cánh tay anh. Phải, tình yêu mãnh liệt như tử thần.”327 Gioan Phaolô cảm thán: “Ở đây, chúng ta đạt tới, theo một nghĩa nào đó, đỉnh cao của một lời tuyên bố tình yêu.” 328 Nàng mở lòng cho chàng, bởi vì chàng đã sẵn sàng dâng cả đời mình cho nàng và yêu nàng cho đến chết.
Dưới ánh sáng của câu chuyện tình yêu này, ta thấy rõ rằng các giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân không phải là những quy tắc luân lý tùy tiện hay áp đặt. Trái lại, chúng gìn giữ và loan báo những khát vọng sâu thẳm nhất của con tim con người: đó là được hiến ban chính mình, noi gương Thiên Chúa – Đấng đã tạo dựng nên ta. Khi “ngôn ngữ của thân xác” được hiểu biết trong toàn thể chân lý về con người và tình yêu, nó dẫn ta đến chỗ nhận ra rằng tình yêu mãnh liệt như tử thần.329
Tuy nhiên, Gioan Phaolô đã đi thêm một bước, khi nói: “Những lời này diễn tả sức mạnh của tình yêu, sức mạnh của eros / ái tình trong sự hiệp nhất yêu thương, nhưng chúng cũng (ít nhất gián tiếp) nói rằng trong ‘ngôn ngữ của thân xác,’ tình yêu này tìm thấy cùng đích chung cuộc của nó nơi sự chết.”330 Tình yêu trần thế—dù say đắm đến đâu—cũng không phải là sự viên mãn tối hậu của trái tim con người. Ngài tiếp tục: “Trong Diễm Ca, eros của con người tỏ lộ khuôn mặt của một tình yêu luôn tìm kiếm và, như thể, chẳng bao giờ thoả mãn.” 331 Nó mãi khắc khoải và cháy bỏng khát vọng. Có một nhu cầu, Thánh Gioan Phaolô lập luận, eros cần phải vượt lên chính nó.332 Tuy nhiên, kiểu tình yêu như thế chưa được mạc khải cho đến nhiều thế kỷ sau khi Diễm Ca được viết ra, khi thánh Phaolô nói về một tình yêu “sẽ không bao giờ tàn lụi.”333
305 Cf. TOB 108:5.
306 Herbert Danby, The Mishnah (Peabody, Mass.: Hendrickson Publishers, 2011), 782.
307 Cf. TOB 108:5.
308 Cf. TOB 111:2.
309 TOB 108:8; Eph. 1:3–7, 10; Song 4:7; cf. TOB 112:3.
310 TOB 92:4.
311 TOB 112:3.
312 TOB 109:1.
313 Cf. TOB 112:5.
314 Cf. TOB 43:7.
315 Song 4:9.
316 Cf. TOB 109:4.
317 TOB 109:4.
318 TOB 109:4.
319 Song 8:10; 109:4; Cf. 110:2.
320 Cf. TOB 110:8.
321 TOB 110:7.
322 Song 4:12.
323 TOB 111:6.
324 TOB 110:8; Song 2:16, 6:3.
325 TOB 111:5.
326 Cf. TOB 111:6.
327 Song 8:6.
328 TOB 111:6.
329 Cf. TOB 113:3.
330 TOB 112:5.
331 TOB 112:4.
332 Cf. TOB 113:2.
333 1 Cor. 13:4–8.

Leave a Reply