Ngay từ đầu, Thiên Chúa “tạo nên họ có nam có nữ.” Như đã đề cập ở trên, thân xác của Ađam tiết lộ sự độc đáo của ông như một con người. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy sự cô độc của ông. Ngay cả trước khi Adam nhìn thấy người phụ nữ đầu tiên, ông cũng có thể cảm nhận rằng việc sáng tạo chưa hoàn tất.
Nếu bạn xem xét mọi hệ thống trong cơ thể con người (tuần hoàn, thần kinh, tiêu hóa, v.v.), bạn sẽ nhận thấy rằng tất cả trừ một hệ thống đều hoạt động mà không cần đến giới tính còn lại. Chỉ có hệ sinh sản cần một thành viên của giới tính khác để phục vụ mục đích của nó. Thân xác nam và nữ được tạo ra dành cho nhau.
Vì vậy, khi Adam lần đầu nhìn thấy thân xác của Evà, ông thốt lên rằng bà “là xương của xương tôi, thịt của thịt tôi” (St 2,23). Hoặc, như Gioan Phaolô giải thích, “Ông dường như nói: Nhìn này, một thân xác biểu lộ ‘con người’!”29 Ađam bày tỏ sự ngạc nhiên, khâm phục và say mê. Ông bị thu hút bởi con người mà bà là, điều này được tiết lộ qua thân xác của bà. Gioan Phaolô lưu ý: “Tình yêu mở ra một trải nghiệm đặc biệt về cái đẹp, tập trung vào những gì có thể nhìn thấy, mặc dù đồng thời nó liên quan đến toàn bộ con người.”30
Sau khi tạo ra nam và nữ, Thiên Chúa ban cho nhân loại điều răn đầu tiên: “Hãy sinh sôi nảy nở, làm đầy mặt đất” (St 1,28). Nhưng tại sao? Tại sao Thiên Chúa ban cho con người khả năng sinh sản? Thiên thần không có khả năng này. Vậy tại sao con người lại có? Một số người cho rằng nếu không, nhân loại sẽ biến mất. Điều này không đúng. Thiên Chúa có thể tạo ra vô số con người nếu Ngài muốn. Nhưng Ngài muốn con người trở thành phản chiếu quyền năng sáng tạo của Ngài, qua đó Ngài bày tỏ tình yêu. Sáng Thế 1, 27 nói: “Chúng ta hãy làm con người theo hình ảnh chúng ta, theo hình dạng chúng ta.”31 Điều này có nghĩa gì?
Tình yêu không thể tồn tại trong cô lập. Phải có một người yêu, một người được yêu, và ngọn lửa tình yêu giữa họ. Đây chính là Ba Ngôi Thiên Chúa: một hiệp thông giữa các Ngôi Vị trong tình yêu ban sự sống. Thiên Chúa tạo ra con người theo hình ảnh và giống như Ngài, và điều này có nghĩa là trong thân xác chúng ta, chúng ta làm hiển hiện ra mầu nhiệm vô hình của Thiên Chúa: Ngài là tình yêu. Như Giáo lý Hội Thánh Công giáo ghi: “Bản thể của Người là tình thương. Khi cử Con Một Người và Thánh Thần Tình Yêu đến trần thế lúc thời gian đã viên mãn, Thiên Chúa mặc khải điều bí ẩn thâm sâu nhất của Người: Chính Người là sự trao đổi tình yêu vĩnh cửu – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – và Người đã tiền định cho ta được dự phần vào tình thương ấy. ”32
Chúng ta giống Thiên Chúa không chỉ vì chúng ta có linh hồn bất tử, trí tuệ và ý chí tự do. Sự bổ sung giới tính của thân xác nam và nữ, qua nam tính và nữ tính của họ, tiết lộ rằng chúng ta được tạo ra để có tương quan, để hiệp thông các con người. Điều này không thể nói về bất kỳ tạo vật nào khác. Mặc dù thực vật và động vật có khả năng sinh sản, chúng không thể trao tặng chính mình trong tình yêu. Một mối hiệp thông con người chỉ được tạo ra bởi món quà trao đổi lẫn nhau, và điều này đòi hỏi ý chí tự do — không chỉ bản năng sinh học để sinh sản.
Gioan Phaolô giải thích: “Con người trở thành hình ảnh Thiên Chúa không phải trong khoảnh khắc đơn độc mà trong khoảnh khắc hiệp thông… [Điều này] có lẽ là khía cạnh thần học sâu nhất của mọi điều có thể nói về con người.”33
Hãy dừng lại và suy ngẫm về những gì Gioan Phaolô đang dạy. Ngài đề xuất rằng sự thân mật giới tính giữa vợ và chồng là một biểu tượng của đời sống nội tâm của Ba Ngôi.34 Khi nói điều này, Ngài không tính dục hóa thiên đường, mà đang tiết lộ rằng tính dục của chúng ta hướng chúng ta tới đó khi được hiểu đúng. Lời mời gọi “sinh sôi nảy nở” là lời mời sống theo hình ảnh Thiên Chúa: trao tặng chính mình qua tình yêu ban sự sống.
Lời mời gọi hiệp thông được tiết lộ trong thân xác là một dấu hiệu về những gì con người được kêu gọi thực hiện: trao tặng chính mình cho người khác và cuối cùng là cho Thiên Chúa, theo hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Rõ ràng, có vô số cách trao tặng chính mình mà không liên quan đến tình dục. Ví dụ, mỗi công việc bác ái (cho người đói ăn, chăm sóc người bệnh) là một hình thức tình yêu ban sự sống. Qua món quà của chính mình, chúng ta yêu như Thiên Chúa, và bằng cách đó, hoàn thành định mệnh của mình.
Trước tội tổ tông, Ađam và Evà vui hưởng sự hợp nhất nguyên thủy. Họ sống hòa hợp với Thiên Chúa, với nhau, với chính mình và với toàn thể tạo vật. Khi tội lỗi xuất hiện, sự chia rẽ lan ra cả bốn phương diện. Tội nguyên thủy không chỉ phá vỡ mối hiệp nhất giữa nhân loại và Thiên Chúa, mà còn làm tổn thương sự hiệp nhất với người khác, tổn thương sự hiệp nhất trong bản thân mỗi người và với toàn thể tạo vật.
Mặc dù Thiên Chúa dự định sự khác biệt giới tính giữa nam và nữ là một món quà, giúp họ hợp nhất nhờ bổ sung cho nhau, nhưng sau biến cố sa ngã, những khác biệt giới tính thường chia rẽ họ và trở thành trở ngại trong các mối quan hệ cá nhân. Để loại bỏ sự đấu tranh này, văn hóa hiện đại đôi khi tấn công giới tính như thể nó là vấn đề. Nói cách khác, “Vấn đề thực sự là các cấu trúc xã hội cứng nhắc duy trì huyền thoại về sự khác biệt của nam nữ. Nếu loại bỏ khác biệt giới tính, vấn đề sẽ được giải quyết.” Thế nhưng chính sự khác biệt của chúng ta mới làm cho sự hợp nhất trở nên khả thi. Không có khác biệt, không có sự bổ sung.
Sự khác biệt giữa nam và nữ không thể được giản lược chỉ còn là ảnh hưởng của xã hội hay chỉ là vấn đề về bộ phận cơ thể và nhiễm sắc thể. Thực ra, sự khác biệt giới tính của chúng ta chỉ được biểu lộ ở một mức độ rất giới hạn nếu chỉ xét hình dáng bên ngoài.35 Nó thuộc về con người chúng ta — sâu đến tận linh hồn.36 Những người hiện đang ở trên thiên đàng có thể chưa có thân xác vinh hiển, nhưng họ vẫn là nam hoặc nữ. Tương tự, sau khi kẻ chết sống lại, chúng ta sẽ nhận lại thân xác của mình trong chính bản tính nam tính hoặc nữ tính ấy.37
Trái với những gì các nhà Giới tính học đề xuất, họ cho rằng: Giới tính không phải là thứ “bẩm sinh” và có thể mâu thuẫn với nhân dạng thực sự của một người. Thế nhưng, sự thật là thân xác của chúng ta tiết lộ nhân dạng của chúng ta! Giới tính là một món quà được Đấng Tạo Hóa ban ngay từ khoảnh khắc thụ thai.
Tất cả những điều này có thể nghe như lời thù ghét hay định kiến đối với những người có thể xác định mình là một giới tính không tương ứng với giới tính sinh học. Những người ủng hộ lý thuyết giới tính đã làm rất tốt trong việc quảng bá ý tưởng rằng bản dạng thực sự của một người không được xác định bởi cơ thể của họ. Mặc dù họ tuyên bố giúp cá nhân chấp nhận bản dạng, nhưng thực chất họ chỉ đang cho phép người ta từ chối nó. Chính Giáo Hội khuyến khích mỗi người đón nhận sự thật sâu xa nhất về bản dạng của mình, được tiết lộ qua thân xác, ngay cả khi quá trình khám phá này khó khăn.38
Hãy tưởng tượng có người đánh bạn, và bạn hỏi anh ta: “Tại sao anh lại đánh tôi?” thì anh ta đáp: “Tôi không đánh anh. Tôi chỉ đánh thân xác của anh thôi.” Chắc hẳn bạn sẽ không bị thuyết phục hay an ủi bởi thứ nhân học lệch lạc đó. Bạn không tách rời khỏi thân xác mình. Bạn không chỉ “có” một thân xác. Thân xác bạn chính là bạn. Nó diễn tả con người và linh hồn của bạn.39
Thật vậy, thân xác con người là tạo vật duy nhất của Thiên Chúa làm cho một ngôi vị trở nên hữu hình. Các thiên thần là những hữu thể có ngôi vị, nhưng họ không có thân xác. Các loài vật có thân xác, nhưng chúng không bày tỏ một ngôi vị. Đây là lý do Thánh Gioan Phaolô nói rằng thân xác là một “bí tích” của ngôi vị. Bí tích là dấu chỉ hữu hình của một thực tại vô hình. Trong một trong những đoạn văn quan trọng nhất của Thần học Thân xác, ngài giải thích:
“Thân xác và chỉ có thân xác, mới có khả năng làm cho điều vô hình – như cái tâm linh và thần linh – thành hữu hình. Thân xác đã được tạo dựng để chuyển giao vào trong cái thực tại hữu hình của thế giới, mầu nhiệm được giấu kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa, và như thế nó là dấu chỉ của mầu nhiệm ấy”.40
Vì vậy, như ngài giải thích trong Thư gửi các gia đình: “Thân xác không bao giờ có thể bị giản lược thành vật chất đơn thuần: nó là một thân xác được thần hoá.”41 Nó không được tạo dựng để bị nắn ép, thao túng hay cắt xén.42 Tính nam và tính nữ cũng không phải là những phát minh của văn hoá. Chúng được định hướng đến một cùng đích, đó là sự kết hợp phu thê và việc làm cha mẹ.43
Thân xác chúng ta không vô nghĩa. Như Hồng y Christoph Schönborn đã viết: “Vẻ đẹp là có thật và đáng tin cậy. Ánh sáng của nó có thể được truy nguyên về ý định nguyên thuỷ của Thiên Chúa khi tạo dựng người nam và người nữ.”44 “Sự thật nền tảng” của hiện hữu con người là chúng ta được dựng nên là nam và nữ; do đó, căn tính tính dục của chúng ta không phải là điều chúng ta tự định nghĩa, nhưng là điều chúng ta lãnh nhận.45
Điều này có thể hiển nhiên đối với một số người, nhưng đối với người khác lại là một thách đố lớn. Có người cảm thấy xa lạ với giới tính sinh học của mình, hoặc bị thu hút bởi người cùng giới. Nếu giả vờ như không có điều đó, họ sẽ cảm thấy giả tạo. Làm sao Thần học Thân xác có thể mang lại cho họ điều gì khác ngoài một sự bác bỏ cứng nhắc và nhị nguyên đối với những trải nghiệm của họ? Làm thế nào những người đang trải qua chứng rối loạn bản dạng giới hoặc hấp dẫn đồng tính có thể diễn tả căn tính đích thực của mình theo ý định của Thiên Chúa, mà vẫn trung thực với cảm xúc nội tâm?
Dù chủ đề này quá phức tạp để có thể bàn thấu đáo trong phạm vi của cuốn sách này, ba điểm suy tư có thể được đưa ra như một câu trả lời nhập môn:
Trước hết, những khuôn mẫu giới tính bất công đôi khi khiến một số người hoài nghi về căn tính của mình. Đức Thánh Cha Phanxicô ghi nhận: “Sự cứng nhắc này, đến lượt nó, có thể cản trở sự phát triển khả năng của một cá nhân, đến mức khiến người đó nghĩ, chẳng hạn, rằng việc trau dồi nghệ thuật hay khiêu vũ thì không thật sự nam tính, hoặc việc lãnh đạo thì không thật sự nữ tính.”46 Nhưng giải pháp ở đây không phải là xóa bỏ giới tính, mà là tránh việc nhấn mạnh quá mức vào nó. Ngài nói thêm: “Tôi tự hỏi, cái gọi là lý thuyết về giới (gender theory) có phải đồng thời là biểu hiện của sự thất vọng và buông xuôi, vốn tìm cách xoá bỏ sự khác biệt giới tính vì không còn biết phải xử lý nó ra sao? Đúng thế, chúng ta có nguy cơ thụt lùi. Việc loại bỏ sự khác biệt thực ra tạo ra một vấn đề, chứ không phải một giải pháp.”47
Điểm thứ hai cần ghi nhớ là sự thật sâu xa nhất về căn tính con người là: mỗi người là một người con được Thiên Chúa yêu thương. Nếu tách mình ra khỏi thực tại này, chúng ta thường định nghĩa bản thân bằng những điều nhỏ hơn, chẳng hạn như khuynh hướng, nghề nghiệp, nhân đức hay thói xấu của mình. Nhưng vì hành vi của chúng ta xuất phát từ căn tính, nên điều cốt yếu là chúng ta phải nhớ rằng mỗi người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, và do đó được mời gọi để tự hiến chính mình. Chỉ khi sống theo sự thật này, được ghi khắc nơi thân xác chúng ta, chúng ta mới tìm thấy sự viên mãn đích thực. Như Đức Hồng y Raymond Burke giải thích: “Biểu hiện kép của con người không phải là dị tính và đồng tính, nhưng là nam và nữ. Đây là thần học nhân học đích thực: rằng Thiên Chúa đã dựng nên con người: ‘Người dựng nên họ có nam có nữ.’”48
Sau cùng, cũng cần ghi nhớ rằng tội nguyên tổ không chỉ phá vỡ sự hiệp nhất giữa người nam và người nữ, mà còn phá vỡ sự hiệp nhất nơi chính mỗi người. Thánh Gioan Phaolô chỉ ra rằng điều này “mang theo một khó khăn gần như mang tính cấu thành trong việc đồng hoá bản thân với chính thân xác mình.”49 Dù trong đoạn này ngài không trực tiếp nói đến chứng rối loạn giới tính, nhưng thực tế vẫn là: mỗi người, theo cách riêng của mình, đều trải qua một sự chia rẽ nào đó giữa thân xác và linh hồn. Nói về Ađam sau khi sa ngã, ngài viết tiếp: “Như thể con người ấy cảm thấy sự toàn vẹn nhân vị của thân xác mình bị đổ vỡ nặng nề, đặc biệt nơi những gì xác định tính dục của nó và những gì liên hệ trực tiếp tới lời mời gọi hợp nhất (người nam và người nữ «sẽ nên một xương một thịt (St 2,24).” 50
Sự rạn nứt này bộc lộ theo nhiều cách khác nhau. Như đã nói, có người quá đề cao phần thiêng liêng của căn tính mà xem nhẹ thân xác; kẻ khác thì ngược lại. Ai cũng phải vật lộn ít nhiều với ý nghĩa của việc là nam hay là nữ. Đức Gioan Phaolô giải thích: “Đấng Tạo Hoá đã trao phó thân xác cho con người như một nhiệm vụ, thân xác trong tính nam và tính nữ của nó.”51 Con người được trao phó nhiệm vụ khám phá lại phẩm giá và ơn gọi của mình, và lời mời gọi này được tỏ lộ trong và qua chính thân xác.
Giáo Hội không ngại mời gọi con người suy tư nội tâm về giới tính của mình, cũng không yêu cầu họ phải giả dối về cảm xúc của mình. Tuy nhiên, đôi khi cần phải bóc tách những lớp tổn thương để có thể khám phá ra ơn gọi riêng. Để nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa cho mỗi người, chúng ta được mời gọi nhìn về Đức Kitô, Đấng “hoàn toàn mặc khải con người cho chính con người và làm sáng tỏ ơn gọi tối hậu của con người.”52
Với một số người, điều này có vẻ như một giải pháp đơn giản cho một vấn đề cá nhân phức tạp. Nhưng cốt lõi của vấn đề là niềm tin: Chúng ta có tin rằng Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta là tốt lành, và Ngài không mắc sai lầm không? Chúng ta có tin rằng khi tạo dựng mỗi người là nam hay nữ, Ngài muốn mặc khải cho chúng ta điều gì đó sẽ dẫn chúng ta trở về với Ngài không? Nếu xoá bỏ tính bổ túc của sự khác biệt giới tính, chúng ta sẽ loại bỏ luôn điều mà nó muốn mặc khải: rằng chúng ta được tạo dựng để hiến dâng chính mình, noi gương Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng chúng ta.
Thuở ban đầu, sự hợp nhất nguyên thuỷ mà Ađam và Evà cảm nghiệm trong hôn nhân là một dấu chỉ rõ ràng hướng đến một điều vượt trên chính họ. Đây là lý do Thánh Gioan Phaolô gọi hôn nhân là “bí tích nguyên thuỷ.”53 Hôn nhân được tạo dựng để trở thành dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại và kế hoạch của Ngài cho đời sống chúng ta. Hôn nhân cũng làm cho mầu nhiệm vô hình của chính Thiên Chúa—Ngài là Tình Yêu—trở nên hữu hình. Dù dấu chỉ này đã bị che mờ vì tội nguyên tổ, nó đã được mạc khải lại nơi Đức Kitô.
Hiểu về sự hợp nhất nguyên thuỷ là điều thiết yếu để hiểu Thần học Thân xác, bởi nó cho thấy Thiên Chúa là ai (một sự hiệp thông ban sự sống giữa các ngôi vị), cho thấy chúng ta là ai (được dựng nên theo hình ảnh Ngài), và cho thấy chúng ta phải sống thế nào trong thời gian và trong vĩnh cửu (bằng cách tự hiến cho tha nhân và cho Thiên Chúa).
30 TOB 108:6.
31 Emphasis mine.
32 Catechism of the Catholic Church, 221; See also Dominum et Vivificantem, 10.
33 TOB 9:3.
34 Cf. Witness to Hope, 343.
35 Cf. TOB 21:3.
36 Pope John Paul II, Gratissimum Sane, 19.
37 Cf. TOB 66:1.
38 Cf. TOB 20:5.
39 Cf. TOB 14:4.
40 TOB 19:4; 96:6.
41 Gratissimum Sane, 19.
42 Cf. TOB 59:3.
43 Cf. TOB 14:6.
44 Christoph Cardinal Schönborn, preface, Pope John Paul II, Man and Woman He Created Them, xxiv–xxv.
45 TOB 18:4; cf. 13:3.
46 Pope Francis, Amoris Laetitia, 286.
47 Pope Francis, General Audience, April 15, 2015.
48 Cardinal Burke, Hope for the World: To Unite All Things in Christ (San Francisco: Ignatius Press, 2016), 102.
49 TOB 29:4.
50 TOB 28:4.
51 TOB 59:2.
52 Gaudium et Spes, 22.

Leave a Reply