Nếu xóa bỏ hôn nhân là mục tiêu thực sự của phong trào đồng tính, chúng ta đang trên đường đạt được mục tiêu đó. Bởi vì nếu hôn nhân không dựa trên sự bổ sung tự nhiên giữa hai giới, thì các chuẩn mực như sự vĩnh cửu, chung thủy và độc quyền cũng trở nên không còn ý nghĩa.
Phần lớn các cặp đôi đồng giới đã từ chối những chuẩn mực đó.53 Hầu hết chấp nhận mối quan hệ “mở”, nghĩa là các đối tác đồng ý quan hệ tình dục với những cá nhân khác. Một nghiên cứu phát hiện ra rằng ngay cả các cặp đôi đồng giới tự nhận mình là Kitô hữu cũng từ chối nguyên tắc độc quyền tình cảm.54
Các ấn phẩm như tờ New York Times đã cố gắng đưa ra góc nhìn tích cực về ngoại tình với các bài viết khẳng định rằng tính không độc quyền của các cặp đôi đồng giới thực sự củng cố mối quan hệ tình cảm của họ.55 Các bài viết này khẳng định rằng các cặp đôi sẽ bền chặt hơn nếu có thể nói rằng, “Ai quan tâm bạn làm gì với thân xác mình, miễn là bạn còn gắn bó về mặt tình cảm?” Đây là một biểu hiện khác của sự chia rẽ giữa cơ thể/con người.
Một số người, vì lý do tôn giáo hoặc triết học, có thể chống lại quan điểm hoàn toàn bị hạ thấp này về hôn nhân. Nhưng con người là những sinh vật xã hội; họ bị ảnh hưởng bởi xã hội xung quanh họ. Kết quả là, nhiều người có thể thấy niềm tin của họ vào một định nghĩa cao cả hơn về hôn nhân đang dần bị bào mòn. Nếu hôn nhân chỉ dựa trên cảm xúc nhất thời và không đòi hỏi thủy chung, thì nó sẽ ổn định và bền vững đến đâu?
Khi các thể chế xã hội như hôn nhân ngày càng trở nên mong manh, con người ngày càng trở nên cô lập và mất kết nối hơn—trên thực tế, giống như những cá nhân nguyên tử trong trạng thái tự nhiên được mô tả bởi các lý thuyết gia hợp đồng xã hội, trước khi nền văn minh hình thành. Chúng ta dường như đang đảo ngược tiến trình ấy: Thay vì thoát khỏi trạng thái “tự nhiên”, chúng ta đang chuyển sang chính trạng thái đó: những người lớn biệt lập, chỉ kết nối tạm thời khi thấy có lợi cho mình. Chúng ta đang thoái lui về trạng thái tiền văn minh.
Trong quá trình này, chúng ta đang mất đi quyền tự do vào tay nhà nước. Như Hannah Arendt giải thích trong The Origins of Totalitarianism (Tạm dịch: Nguồn gốc của Chủ nghĩa toàn trị), những người dễ bị kiểm soát bởi chế độ toàn trị nhất là những cá nhân bị cô lập, không thuộc về bất kỳ cộng đồng hay cấu trúc xã hội nào. Vì không có sự bảo vệ từ các tổ chức trung gian, họ dễ dàng bị nhà nước áp đặt hệ tư tưởng và kiểm soát hành vi. Cá nhân bị cô lập dễ bị thao túng và kiểm soát.56
53. Một nghiên cứu phát hiện rằng “82% nam giới đồng tính đã quan hệ tình dục với người khác ngoài bạn đời chính của họ.”
Còn về tỷ lệ tan vỡ hôn nhân thì sao? Một nghiên cứu từ Na Uy và Thụy Điển—hai quốc gia đã hợp pháp hóa quan hệ đồng giới từ những năm 1990—cho thấy rằng các mối quan hệ của nam giới đồng tính có khả năng tan vỡ cao hơn 50% so với các cuộc hôn nhân dị tính, trong khi các mối quan hệ của nữ giới đồng tính có nguy cơ tan vỡ cao hơn 167% so với hôn nhân dị tính. (Không, đó không phải là lỗi đánh máy.) Stanton L. Jones, “Same-Sex Science,” First Things, February 2012. See also Hanna Rosin, “The Dirty Little Secret: Most Gay Couples Aren’t Monogamous,” Slate, June 26, 2013.
54. For more information on this study, see Corvino and Gallagher, Debating Same-Sex Marriage, 136.
55. Scott James, “Many Successful Gay Marriages Share an Open Secret,” New York Times, January 28, 2010.
56. “Quần chúng hình thành từ những mảnh vỡ của một xã hội bị phân tán cao độ… Đặc điểm chính của con người đại chúng không phải là sự tàn bạo hay lạc hậu, mà là sự cô lập và thiếu các mối quan hệ xã hội bình thường.” Hannah Arendt, The Origins of Totalitarianism (New York: Harcourt Brace, 1951), 310–11.
Leave a Reply