Người ta nói rằng khát khao sâu thẳm nhất của trái tim con người là nhìn và được nhìn trong tình yêu. Ban đầu, Adam và Evà đã trải nghiệm điều này một cách độc đáo. Họ trần truồng mà không hề xấu hổ, họ được tạo dựng trong trạng thái mà Đức Gioan Phaolô gọi là sự trong trắng/đơn sơ nguyên thủy và trần trụi nguyên thủy. Một số người cho rằng sự không xấu hổ của họ cho thấy họ ngây thơ, giống như những đứa trẻ nhỏ, hoặc hiểu biết còn thô sơ, giống như một bộ tộc sống tách biệt trong rừng. Thế nhưng đây không phải là kiểu đơn sơ mà Đức Gioan Phaolô đề cập đến.
Vào buổi ban đầu, tội lỗi chưa hề làm mờ trái tim con người. Vì vậy, sự đơn sơ nguyên thủy của Adam và Eva là một ân huệ đặc biệt của sự thánh thiện, tức là sự tham dự vào đời sống nội tâm của Thiên Chúa.54 Sự thánh thiện này cho phép họ nhìn nhận chính mình và người khác như cách Thiên Chúa nhìn thấy họ. Họ ý thức được ý nghĩa của cơ thể mình và cách mà nó thể hiện ơn gọi yêu thương. Sự tinh khiết trong tâm hồn này cho phép họ nhìn nhau như một món quà để nhận lãnh, chứ không phải như một đối tượng để chiếm hữu.
Trong cuốn sách Tình Yêu và Trách Nhiệm, Karol Wojtyła dạy rằng con người là một thiện hảo mà thái độ duy nhất thích hợp là yêu thương.55 Giá trị của con người khiến cho người đó không bao giờ có thể bị sử dụng như một phương tiện để đạt mục đích nào đó. Đối với Ađam và Evà, giá trị này rất rõ ràng. Do đó, sự không xấu hổ của họ không phải là thiếu nhận thức, mà là cảm nghiệm trọn vẹn sự hiểu biết về ý nghĩa của cơ thể.56 Ađam và Evà không cảm thấy xấu hổ vì không có lý do để cảm thấy vậy. Cơ thể trần truồng của đối phương không làm lu mờ giá trị của người đó, mà ngược lại, chính là sự bày tỏ rõ ràng về giá trị ấy.
Thật không may, có một quan niệm phổ biến sai lầm rằng tội nguyên tổ của Ađam và Evà là sự gần gũi về tình dục. Điều này chưa bao giờ là giáo huấn của Giáo Hội. Thực tế, chính trước khi sa ngã, Thiên Chúa đã ra lệnh cho Ađam và Evà sinh sôi nảy nở. Không những sự gần gũi tình dục không mang tính tội lỗi tự thân, Ađam và Evà còn sẽ trải nghiệm ham muốn tình dục theo một cách hoàn toàn trong sáng. Ý tưởng về ham muốn tình dục trong sáng nghe có vẻ mâu thuẫn với con người hiện đại, vì xã hội thường hiểu sai sự trong sạch của một ham muốn gần gũi về mặt thể lý. Tuy nhiên vào buổi ban đầu, không phải như vậy.
Đức Gioan Phaolô giải thích rằng trước khi tội lỗi làm mờ tầm nhìn của họ, trong sự trần truồng, Ađam và Evà sẽ nhìn nhau qua chính “mầu nhiệm của sáng tạo.” Đây là mầu nhiệm Thiên Chúa là tình yêu, Ngài sáng tạo ra vạn vật từ tình yêu, và gọi nam và nữ đến để yêu thương.58
Vì vậy, cặp đôi nguyên thủy sẽ nhìn nhau với “cái nhìn nội tâm tràn đầy an bình.”59 Với phụ nữ, họ đặc biệt có thể nhận biết khi họ bị nhìn như một đối tượng để thỏa mãn người khác. Khi một người phụ nữ cảm nhận dục vọng trong lòng người nam, cô sẽ cảm thấy bất an, dễ tổn thương và thậm chí là oán giận. Một chuyên gia về não bộ nữ giới nhận xét rằng khoái cảm tình dục của phụ nữ chỉ đạt mức tối đa “ khi hạch hạnh nhân – trung tâm nỗi sợ và lo âu của não – đã bị tắt hoạt động.”60 Evà sẽ không cần phải phòng thủ trước cơ thể hay trái tim mình, vì Ađam có khả năng nhìn cô với tình yêu mãnh liệt và trong sáng nhất có thể.
Đức Gioan Phaolô giải thích rằng chính khả năng nhìn nhau “bằng sự bình an nội tâm” này tạo nên “sự thân mật trọn vẹn giữa các cá nhân.”11 Một sự khẳng định về giá trị con người làm cho mối hiệp thông chân thật giữa họ trở nên khả thi. Làm sao có thể có sự hiệp nhất thực sự giữa hai người nếu họ không nhận ra giá trị vô giá của món quà mà người kia mang đến?
Ađam và Evà nhận thức được giá trị to lớn của món quà này. Sự đơn sơ nguyên thủy của họ cho phép họ nhìn nhận sự trần truồng nguyên thủy như khả năng của cơ thể con người trong việc phản chiếu Thiên Chúa như tình yêu. Sự trần truồng nguyên thủy không xấu hổ này chính là chìa khóa để hiểu Thần học Thân xác. Thực tế, Đức Gioan Phaolô còn đề xuất rằng sự trần truồng không xấu hổ của họ bày tỏ sự thánh thiện của Thiên Chúa trong thế giới hữu hình.62 Không cần phải nói, thế giới ngày nay chẳng thể nghĩ sự trần truồng là thánh thiện. Thế nhưng đó là vì họ chưa hiểu được ý nghĩa thực sự của cơ thể.
54 Cf. TOB 16:3; 19:5.
55 Cf. Wojtyla, Love and Responsibility, 41.
56 Cf. TOB 12:2.
57 TOB 13:1.
58 Cf. Michael Waldstein, Theology of the Body Map (Florida: Sapientia Press of Ave Maria University, 2017), 12.
59 TOB 13:1.
60 Louann Brizendine, The Female Brain (New York: Morgan Road Books, 2006), 77.
61 TOB 13:1.
62 Cf. TOB 19:5.

Leave a Reply