Quan điểm theo hợp đồng về vai trò làm cha mẹ cũng được khuyến khích bởi việc sử dụng ngày càng nhiều phương pháp sinh sản nhân tạo. Một bài viết về chủ đề này bắt đầu một cách đầy kịch tính: “‘Không có tình dục! Không có tình dục nào được sử dụng để tạo ra đứa trẻ này!’ Đó là lời tuyên bố đầy tự hào của một trong hai ‘người cha’ của cô gái khi cô được đưa lên cao và khoe khoang” tại một hội nghị về tình dục.68 Vậy điều gì sẽ xảy ra với cái nhìn của chúng ta về trẻ em khi chúng không còn được sinh ra từ hành vi tình dục giữa cha mẹ có tình yêu thương, mà lại trở thành sản phẩm được tạo ra trong phòng thí nghiệm?
Một mặt, sinh sản có sự hỗ trợ đã giúp nhiều cặp vợ chồng có con khi một trục trặc sinh học ngăn cản quá trình thụ thai bình thường diễn ra. Trong những trường hợp này, thụ tinh trong ống nghiệm được dùng như một công cụ y học—để khắc phục hoặc vượt qua một quy trình tự nhiên đang gặp trục trặc, nhằm đạt được mục đích tự nhiên vốn có của việc sinh sản. Giống như các hình thức y học khác, nó sử dụng công nghệ để khắc phục hậu quả của sự sa ngã, bù đắp hoặc sửa chữa những khiếm khuyết trong tự nhiên. Và giống như các hình thức công nghệ khác, nó có thể là biểu hiện của nguyên tắc thống trị thiên nhiên trong Kinh thánh.69
Tuy nhiên, ngày nay, một thái độ đang lan rộng rằng bất kỳ ai muốn có con đều có quyền có con—ngay cả khi họ phải đối mặt với các rào cản sinh học như độc thân, đã qua tuổi mãn kinh hoặc trong một mối quan hệ đồng giới. Nói cách khác, ngay cả khi họ không thể có con thông qua các dù họ không thể có con bằng con đường tự nhiên, công nghệ hiện đại vẫn trao cho họ quyền chọn lựa sinh con theo ý muốn. Công nghệ đã vượt khỏi vai trò hỗ trợ tự nhiên, để trở thành một phương tiện vượt qua tự nhiên—một công cụ nhằm áp đặt ý chí con người lên việc sinh sản.
Nếu bạn không thể tạo ra một đứa trẻ, bạn có thể ký hợp đồng để có được một đứa trẻ.
Trong những trường hợp như vậy, công nghệ sinh sản không còn nhằm củng cố mối dây tự nhiên giữa cha mẹ và con cái, mà thay vào đó tạo ra những liên kết nhân tạo, dựa trên ý chí và lựa chọn cá nhân. Khi sinh con trong phòng thí nghiệm, một nhà văn Công giáo nói rằng, “ý định chiến thắng sinh học, ham muốn chiến thắng thiên nhiên”.70 Đây là một ví dụ khác về việc đề cao sự lựa chọn trong khi hạ thấp cơ thể. Tư duy kỹ trị tôn vinh quyền lực kiểm soát tuyệt đối đối với thân xác và các chức năng tự nhiên của nó.
Khi tách khỏi mối liên hệ với việc làm cha mẹ tự nhiên, việc sinh sản nhân tạo có thể nuôi dưỡng tư duy phi nhân bản, coi trẻ em như sản phẩm công nghiệp—được tạo ra bởi các quy trình công nghệ để phục vụ khách hàng. Trẻ em có thể bị xem như món hàng—một vật thể không có nhân vị, được thiết kế, sản xuất, tinh chỉnh và nâng cấp. Ngoài ra, chi phí của các dịch vụ sinh sản công nghệ cao có thể “khiến việc sinh sản ngày càng giống với các giao dịch kinh doanh và mua sắm của người tiêu dùng”, Peters cảnh báo. Trẻ em trở thành hàng hóa để “đánh giá theo các tiêu chuẩn kiểm soát chất lượng”. Và “nếu cha mẹ trả tiền không tin rằng họ đang nhận được giá trị tương xứng với số tiền bỏ ra, họ có thể từ chối sản phẩm”.71
Trong những năm gần đây, đã có nhiều trường hợp bà mẹ mang thai hộ bị yêu cầu phá thai vì đứa trẻ chưa sinh ra mắc dị tật – khi cha mẹ trả tiền không nghĩ rằng họ “nhận được giá trị tương xứng với số tiền bỏ ra”.72
Tư duy kỹ trị có xu hướng nhìn mọi thứ, kể cả trẻ em, như vật liệu thô có thể bị thao túng và tái tạo theo ý con người. Khi áp dụng công nghệ vào việc sinh sản, Meilander cảnh báo, “Chúng ta có xu hướng coi mình chỉ là một tinh thần tự do tách biệt khỏi cơ thể. . . . Điều chúng ta có nguy cơ gặp phải ở đây là sự tách biệt giữa con người và cơ thể, làm hạ thấp cơ thể và biến nó thành một ‘vật thể’.”73
Một lần nữa, cốt lõi của vấn đề nằm ở sự phân đôi nhị nguyên—sự tách biệt giữa nhân vị và thân xác khiến con người đánh mất giá trị toàn vẹn của chính mình.
68. Jean C. Lloyd, “The Wrong Kind of Rights: Same-Sex Marriage, Third-Party Reproduction, and the Sexualization of Children,” Public Discourse, May 5, 2015.
69. Rae and Cox, Bioethics, 105. See also Nancy Pearcey, “Technology, History, and Worldview,” Genetic Ethics.
70. Rickard Newman, “Journey to Baby Gammy: How We Justify a Market in Children,” Public Discourse, August 18, 2014.
71. Peters, For the Love of Children, 54, 72.
72. For example, Steven Ertelt, “Lesbian Couple Asks Surrogate to Abort Baby after Learning She Had Down Syndrome,” LifeSite News, September 2, 2014.
73. Meilander, Bioethics, 19, 21.
Leave a Reply